Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên: Một đời cho tình ca.


Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên: Một đời cho tình ca
Nhân dịp nhận giải Pioneer in Music vào ngày 16-10-09 tại Seattle, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên cho  khán thính giả ái mộ anh một góc tâm sự :
"...Thập niên 1960- 1970 khi cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc Việt Nam đã bùng nổ một cách khốc liệt, tình yêu cuả những ngươì trẻ tuổi chúng tôi lúc bấy giờ chỉ là những vành khăn tang, những giọt nước mắt, những xót xa cuả một thời… Là một người sáng tác trẻ, tràn đầy sức sống cuả tuổi đôi mươi, yêu đời và yêu người, tôi có tham vọng là muốn mang lại cho thế hệ tuổi trẻ chúng tôi một niền tin, một niềm hy vọng mới cho tương lai khi con nguời sẽ thương yêu nhau, sẽ quên đi những mất mát, những hận thù đang xảy ra hàng ngày quanh mình. Qua những bàn tính ca trong sáng, lãng mạn và mộng mơ, tôi hy vọng mình đã mở ra đuợc một cánh cửa khác cho tuổi trẻ cuả thế hệ mình, và ở đó chỉ có tình yêu giữa người và người, tình yêu giữa người và cuộc sống, cũng như cuả thiên nhiên, của thời tiết, khí hậu.. Âm nhạc với tôi là một món quà cuả Thượng Đế, và cũng chính là tình yêu.
...Tôi bắt đầu sáng tác từ năm 1963 lúc còn theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc Sàigòn. Năm 1965, tôi hoàn tất nhạc phẩm đầu tay “ Chiều Nay Không Có Em”. Bản tình ca thứ hai đã đượïc các đài phát thanh Sàigòn và Quân Đội cho phổ biến rất nhiều trong hai thập niên 1960- 1970 là ca khúc “ Muà Thu Cho Em”. Đây là bài hát đã mang tên tuổi cuả NTM đến với khán thính giả yêu tân nhạc tại Sàigòn, cũng như ở khắp các thành phố lớn. Từ lòng yêu nhạc, và tình yêu người, tôi đã tiếp tục sáng tác, và cùng với một số thân hữu đi trình diễn ở khắp các giảng đường đại học, các trung tâm văn hoá, và các hội quán văn nghệ Sàigòn để giới thiệu những sáng tác mới cuả mình. Năm 1974, sau khi một số các ca khúc cuả tôi đã được phổ biến rộng rãi, tôi đã cùng một số bạn hữu thực hiện cuốn băng Tình Ca NTM gồm 17 ca khúc, mà trung tâm Thuý Nga đã phát hành ở Sàigòn vào cuối năm 1974. Cuốn băng này được giới yêu nhạc nồng nhiệt ủng hộ; và sau đó tôi cũng cho in một số bản nhạc đang được ưa chuộng, như Mùa Thu Cho Em, Áo Luạ Hà Đông, Chiều Nay Không Có Em, Tuổi 13.. Tôi không bao giờ quên được những tình cảm thích thú từ những giới thưỏng ngoạn nhạc gửi đến một tác giả trẻ như tôi lúc bấy giờ, qua những chuơng trình nhạc yêu cầu, cũng như chính tôi đã chứng kiến một vị thiếu uý trong binh chủng Nhẩy Dù đã ghé vào mua bản nhạc Muà Thu Cho Em và cuốn băng tình ca NTM tại một kiosque trên đường Nguyễn Huệ,..hay trong đêm ra mắt cuốn băng tình ca NTM tại Hội Việt-Mỹ Sàigòn: Tôi đã thực sự xúc động giữa những tiếng vỗ tay, hoan hô nhiệt tình cuả khán thính giả. Từ lâu, tôi đã nhận biết rằng khán thính giả luôn đóng vai trò rất lớn, rất quan trọng trong sự tồn tại cuả một sáng tác phẩm, cuả tác giả sáng tác. Với tình cảm của giới thưởng ngoạn dành cho những sáng tác cuả mình, tôi cảm thấy hạnh phúc, vì những nỗi lòng mình muốn diễn tả ra qua âm nhạc đã được chia xẻ; và tôi đã là một đồng hành tuyệt vời cuả bao khán thính giả. Và dĩ nhiên đó cũng là một động lực thúc nay tôi tiếp tục con đường sáng tác tình ca, để có thể tiếp tục chia xẻ những tình cảm tâm tư riêng cuả mình đến người nghe.
...Tôi đặt chân lên nuớc Mỹ năm 1980. Cũng đã gần 30 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn là một người viết tình ca, như tôi đã sáng tác như thế, cuả những ngày tháng cũ (thập niên 1960- 70). Khuynh hướng sáng tác của tôi vẫn không có gì thay đổi. Tôi cảm thấy mình vẫn là “sứ giả cuả tình yêu”, vẫn muốn chia xẻ những tình cảm luôn luôn được uơm chín từ tâm tư riêng cuả một nguời đã yêu và sẽ yêu để đem đến với bất cứ một ai còn muốn lắng nghe tình ca Việt Nam. Cái khác là truớc 1975 khi còn ở Sàigòn với những thân yêu quanh mình, với những luạ là, mưa nắng hai muà, những quán hàng, những đường phố quen thuộc, từng nguời yêu buổi sáng, buổi chiều… đã cho tôi những cảm xúc để viết lên những tình khúc với ý nhạc nhẹ nhàng, trong sáng, những lời ca dịu dàng, đầy thơ tính. Còn bây giờ, ở hải ngoại, người ta thật vội vàng, xa lạ, bận rộn.. Những thành phố, nhà cửa thật to lớn, nhưng cũng thật là lạnh lẽo, cô đơn.. Tất cả những hoàn cảnh những tình cảm này cũng lại trao cho tôi những hứng khởi mới: Ngày tháng bên này đã và đang để lại trong tôi những nét muộn phiền rất riêng, rất độc đáo, và tôi ghi lại những lời ca “mệt mỏi buồn bã cuả cuộc sống tạm dung”..
...Trong các khuynh hướng sáng tác, thông thường người ta nói nói Tình Ca (đôi lứa), Thân Phận, Quê Hương, Tuổi Thơ,… Từ những ngày đầu tiên sáng tác, tôi đã tự chọn cho mình con đường viết tình ca, vì thấy thích hợp với con người, với cá tính lãng mạn, đa cảm, đa sầu của mình, và cũng chỉ vì tình yêu mãi mãi vẫn là một đề tài muôn thuở cho người nghệ sĩ sáng tác.. một lần nào đó tôi đã có nói là: “chỉ xin được nhớ đến như một người viết tình ca không hơn, không kém”. Song trong môi trường xã hội hiện nay, tôi vẫn tiếp tục viết tình ca, vẫn tiếp tục chia xẻ những tình cảm, tâm tư riêng của mình qua những đổi thay, thăng trầm của cuộc sống nơi xứ người, và vẫn mong được gửi những tác phẩm của mình đến với tất cả những ai có lòng tiếp tục thưởng thức ca nhạc Việt Nam nói chung, và tình ca Ngô Thụy Miên nói riêng….
...Cá nhân tôi vẫn yêu mến mấy ca khúc đặc biệt mà tôi đã hoàn tất nhạc trước khi đặt lời, bốn ca khúc này mang một chút âm hưởng nhạc cổ điển Tây Phương: Mắt Biếc, Từ Giọng Hát Em, Dốc Mơ, và Miên Khúc. Ngoài ra, hai ca khúc tôi nghĩ đã được nhắc đến nhiều nhất, đã chuyển đạt được gần như tất cả những điều tôi muốn chia xẻ với người về tình yêu, đó là Niệm Khúc Cuối, và Riêng Một Góc Trời. Niệm Khúc Cuối là ca khúc trong sáng lãng mạn, tôi viết từ năm 1971, có thể nói bài hát này đã được thu thanh, thu hình nhiều nhất trong các tác phẩm của tôi: “Tình ơi! Dù sao đi nữa, xin vẫn yêu em”. Vâng, đó là điều duy nhất tôi muốn nói về tình yêu. Hãy cho, hãy chấp nhận và hãy tha thứ để tình yêu vĩnh viễn mãi là niềm tin và hy vọng của chúng ta. Bài hát thứ hai tôi viết ở hải ngoại năm 1996: “Riêng Một Góc Trời”:“Đời như sương khói, mơ hồ trong bóng tối.Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một góc trời”. Nếu hạnh phúc là những kỷ niệm sáng nắng chiều mưa của một thời, là những tàng lá úa rơi buồn trong nỗi nhớ hay những nụ hôn, những giọt nước mắt lặng lẽ vẫn chìm sâu trong trí tưởng… thì “Riêng Một Góc Trời” đã là một người bạn đồng hành tuyệt vời cho những tâm hồn đã yêu, đang yêu và mãi sẽ còn yêu.
...Khi Trung Tâm Thúy Nga phát hành cuốn “Video Tình Ca Ngô Thụy Miên” năm 1992, tôi nhận được nhiều điện thoại cùng những lời khuyến khích đến từ khán thính giả khắp nơi đã xem cuốn video này: Những lời cám ơn đều dành cho một sáng tác tôi viết ở SàiGòn sau năm 1975: “Em Còn Nhớ Mùa Xuân”, một ca khúc tôi viết trong một bối cảnh đặc biệt, kể lại những giao động một thời trên quê hương đất nước, và nói lên tâm sự của một người thanh niên giữa những mất mát đổi thay đang xảy ra quanh mình. Đây là ca khúc duy nhất tôi viết có mang chút bối cảnh xã hội, và cũng đã nói lên được những rung cảm của thanh niên thế hệ trẻ chúng tôi ngày tháng đó. Phải nói đây là một ca khúc đã mang lại cho tôi những niềm vui và hãnh diện đặc biệt trong cuộc đời sáng tác của mình.
...Nếu nói Âm Nhạc là một phương tiện tiêu biểu hiện được những tình cảm giao hòa giữa con người và con người, giữa con người và cuộc sống, giữa con người và thiên nhiên, thời tiết thì tôi cho rằng anh em sáng tác chúng tôi (trước 1975), cho dù là ở trên quê hương, với những tháng ngày, kỷ niệm thân yêu quanh mình hay đang bận rộn trên phần đất tạm dung này với những đổi thay, thăng trầm của cuộc sống, chúng tôi vẫn tiếp tục sáng tác, vẫn tiếp tục gửi đến đời, đến người những tác phẩm được viết từ trái tim còn tuổi trẻ như ngày nào (Riêng Một Góc Trời-1996). Và như vậy, tôi không nghĩ đây là một hiện tượng, khi một số nhạc sĩ chúng tôi vẫn có những tình khúc tuyệt vời (như Anh Bằng mới sáng tác: Anh Còn Yêu Em/thơ PTT, Đừng Xa Em/thơ BH (2009)) vẫn đang viết nhạc tình trong năm 2009) (như Đức Huy-Khóc Một Giòng Sông) mà khán thính giả trên toàn quốc đã hoặc sẽ chia xẻ với tác giả.
Từ ngày ra hải ngoại, tôi cũng như Anh Bằng, Lam Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Đức Huy.., vẫn tiếp tục cống hiến những ca khúc, tác phẩm bất hủ; và tôi hy vọng họ vẫn mãi là người bạn đồng hành bên cạnh những người đã yêu, đang yêu, và mãi sẽ còn yêu!"
kgiaoru wrote on Nov 2, '09
hihi nhà iem rất mê các tình khúc của Ngô Thụy Miên và Vũ Thành An , mà sao nhà bác này ko thả fát nhạc nào vào nhỉ :)
hoacucvang wrote on Nov 2, '09
kgiaoru said
hihi nhà iem rất mê các tình khúc của Ngô Thụy Miên và Vũ Thành An , mà sao nhà bác này ko thả fát nhạc nào vào nhỉ :) 
Kgiaoru tho^ng ca?m, ba'c y' chu*a ra`nh vu. la`m sao co' the^? post nha.c vo^ Blog da^u :D
hoacucvang wrote on Nov 2, '09
To*' day cung me dam cac tinh khuc cua Ngo Thuy Mien va Vu Thanh An, Vu Thanh An thi to thich nghe bai Doi Da' Va`ng
cuoidekhonggia wrote on Nov 3, '09
Em khong thay bai hat minh yeu thich duoc de cap den o day, hu hu... "Mua co roi va nang co phai..."
hd7688 wrote on Nov 19, '09
Là những NTM,Từ Công Phụng,VTA...Là những tình ca da diết đến day dứt...
Thankyou về bài viết..

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009

CHUNG THUỶ TRONG HÔN NHÂN.


Oct 29, '09 10:23 PM
for everyone
CHUNG THUỶ TRONG HÔN NHÂN
 

Chuyện kể rằng : Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ 5 ngày đã được lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm gia đình. Về gần tới nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như chẳng nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.

Hồ Tử nói :
Này em, dùng tận lực cũng không bằng một năm được mùa, lấy hết sức hái dâu sao bằng có người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, cần chi hái dâu cho vất vả tấm thân.

Thiếu nữ ấy vẫn thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.

Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hổ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là người hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn muốn độn thổ.Lúc này nàng mới dạy cho chàng một bài học.
Chàng đi làm quan 5 năm mới về, đáng lẽ phải vội vã về thăm mẹ và gặp vợ, vậy mà chỉ thấy một người đàn bà dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào mà đã lên tiếng chọc ghẹo, chẳng biết gì đến mẹ, không thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, hám sắc thì lòng dâm, mê dục thì bất nghĩa, bất nghĩa thì cai trị bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được.

Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về tình yêu chung thuỷ giữa vợ chồng. 
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay đổ vỡ vi` phản bội. 
Lời thề hứa long trọng của đôi bạn trẻ : “ Tôi nhận em làm vợ và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời tôi” xem ra vượt quá sức của các đôi tân hôn ngày nay. Họ yêu nhau hôm nay, rồi ngày mai chia tay, dễ dàng như trở bày tay.

Vậy muốn giữ lòng chung thuỷ trong hôn nhân, chúng ta cần phải :

1.Giữ lòng trung tín.
Trung tín trong hôn nhân là điều ma` con người có bổn phận phải tuân giữ. 
Trung tín khi tình còn say, hương còn nồng là một điều dễ dàng. Trung tín trong lúc hoa đã phai nhuỵ đã tàn mới đích thực là trung tín trong tình yêu.
Nếu “ Lửa thử vàng” thì có thể nói “ Trung tín thử tình yêu”. Một tình yêu đã trải nghiệm qua khổ đau và thử thách mà vẫn một lòng trung kiên, đó mới thật là tình yêu đậm đà thâm thuý.
2.Loại trừ người thứ ba.
Muốn giữ được lòng trung tín, thì trong ngôi nhà tình yêu của Vo Chong không nên có người thứ ba, sẽ rất chật chội. Chị không nên nhớ về dĩ vãng xa xưa, để cho lòng mình rộn lên nhịp thổn thức.

Từ đấy thu rồi thu lại lại thu
Lòng tôi vẫn biết tôi thương nhớ.
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.. .

Anh cũng không nên “trăng hoa ong bướm” như những ngày còn không, kẻo ông cha ta lại nguyền rủa là “lũ bạc tình “ phải “ chém cha nó đi”. Và nhân gian có dịp thốt lên câu mỉa mai :

Chỉ đâu mà buộc ngang Trời,
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.

Tác giả Veron đã nói một câu chí lý : “ Hạnh phúc ở ngay trong gia đình bạn, chớ đi tìm nơi địa đàng của những kẻ xa lạ”.
3.Nuôi dưỡng tình yêu 

 
Yêu không phải chỉ thể xác của nhau, mà là toàn diện con người của nhau. Tình yêu này phải được nuôi dưỡng và phát triển liên tục. Từ sự phối hợp thể xác,  cần hướng tới sự hiệp nhất tâm hồn.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường viết : “ Tình yêu không tách rời khỏi thời gian, mà thời gian thì luôn luôn đổi mới, bởi thế, tình yêu không thể chọn lựa một lần là xong, cưới nhau một lần là đủ, tình yêu cần rửa tội mỗi ngày, cưới nhau mỗi sáng”.

Hãy vẫn là người tình của nhau. Chị hãy biết hấp dẫn anh bằng sự chăm sóc vẻ đẹp của cơ thể. Thiếu sót điều này là chị đã lót đường, để những bóng hồng khác đi vào gia đình bạn. đừng như những cô vợ cầu thả sau đây :
Chửa chồng nón thúng quai thao.
Chồng rồi nón rách quai nào thì quai
Chửa chồng yếm gấm thêu hoa
Chồng rồi hai vú để ra tày đình

Còn anh, hãy hào phóng những lời yêu thương ngọt ngào, và tỏ ra biết ơn sự chăm sóc ân cần của chị, nhất là biết chia sẻ với chị gánh nặng gia đình, những chuyện không tên mà rất vất vả, chuyện giáo dục con cái cũng không đơn giản chút nào.
Tóm lại, muốn giữ được lòng thuỷ chung, anh chị cần có lòng trung tín với nhau, dứt khoát loại trừ mọi mầm mống phản loạn từ trong trứng nước, mọi tâm tư và tình cảm hãy dành trọn vẹn cho nhau, phải huỷ diệt bóng dáng người thứ ba ngay khi vừa ló dạng.

Cầu xin chung ta sẽ gìn giữ  thuỷ chung trong tình yêu vợ chồng, hôm nay và mãi mãi.

cuoidekhonggia wrote on Dec 3, '09
Vợ chồng là "tam sanh hữu hạnh", sẽ phải tu từ 3 kiếp trước mới được thành vợ thành chồng, thế mà nhiều người không biết trân trọng, anh nhỉ.

Đặng Thế Phong và cuộc tình chung thủy trong dòng nhạc Việt Nam.


Đặng Thế Phong và cuộc tình chung thủy trong dòng nhạc Việt Nam

Cái tên Đặng Thế Phong có lẽ sẽ không xa lạ gì đối với người biết thưởng thức nhạc. Dù chỉ có sáng tác vỏn vẹn có ba nhạc phẩm “ Con thuyền không bến, Đêm thu và Giọt mưa thu” nhưng nhạc sĩ Đặng Thế Phong đã có một chỗ đứng trang trọng trong vườn hoa âm nhạc tiền chiến nói riêng và trong nền âm nhạc Việt Nam nói chung.

Xuất thân từ một gia đình nghèo, Đặng Thế Phong đã sinh sống bằng nghề vẽ tranh cho báo Học Sinh trong thời gian theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và  có lúc dạy nhạc ở kinh đô xứ Chùa Tháp. 

Định mệnh đã run rủi người họa sĩ trẻ này bước vào con đường sáng tác nhạc những thu khúc để đời khi tiếng sét ái tình đã cột chặt con tim ông với một thiếu nữ buôn bán ở chợ Sắt, tỉnh Nam Định. Một mối tình tuyệt đẹp và thủy chung khó tìm thấy ở thời đại đầy lừa dối này. Phải chăng tình yêu cao thượng và thủy chung đó chính là chất xúc tác tạo cảm hứng cho người nhạc sĩ sáng tác những bản nhạc để gửi gấm lòng mình qua giòng nhạc trữ tình

Trong một đêm cắm thuyền trên dòng sông Thương ở Bắc Giang, cùng với vài người bạn, sau khi đọc bức thư của người yêu nhờ bạn mình trao cho ông, Đặng Thế Phong bỗng trở nên buồn bã trước tin cô Tuyết nhuốm bịnh chỉ vì nhớ thương ông. Nhạc phẩm “Con thuyền không bến” được sáng tác trong đêm đó trên dòng sông Thương vào mùa thu năm 1940 với tất cả thương nhớ cuồn trong hồn nhạc và lời tựa như thơ:  
Đêm nay thu sang cùng heo mây 
Đêm nay sương lam mờ chân mây 
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng 
Như nhớ thương ai chùng tơ lòng 

Trong cây hơi thu cùng heo mây 
Vi vu qua muôn cành mơ say 
Miền xa lời gió vang thông ngàn 
Ai oán thương ai tàn mơ màng 

Lướt theo chiều gió 
Một con thuyền, theo trăng trong 
Trôi trên sông thương, 
nước chảy đôi dòng 
Biết đâu bờ bến 

Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu 
Trên con sông thương, 
nào ai biết nông sâu ? 

Lênh đênh giữa dòng sông Thương mà tâm tư người nhạc sĩ chỉ hướng về nơi xa xăm, ngẫm thân phận mình như một chiếc thuyền cô độc trong đêm thâu mơ được xuôi dòng trở về bến Tuyết êm đềm những thương yêu chân thật

Nhớ khi chiều sương, 
cùng ai trắc ẩn tấm lòng. 
Biết bao buồn thương, 
thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng 

Bến mơ dù thiết tha, 
thuyền ơi đừng chờ mong 
Ánh trăng mờ chiếu, 
một con thuyền trong đêm thâu 
Trên sông bao la, 
thuyền mơ bến nơi đâu.

Hai hôm sau, Đặng thế Phong vội vã trở về Nam Định thăm người yêu. Sự có mặt của ĐTP đã giúp cho bịnh tình của Tuyết thuyên giảm rất nhanh. Rồi đêm sau cặp tình nhân dắt nhau đi dạo dưới ánh trăng thu. ĐTP đã thì thầm hát cho Tuyết nghe bản nhạc này rồi nói với Tuyết rằng: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi !”. Người nhạc sĩ đã phải lấy khăn tay nhẹ nhàng lau hai giòng lệ lăn trên gò má nàng vì xúc động. Nàng cũng đã đáp lại lòng cho người tình tri kỷ: “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự , một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được ! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi”.

Ngoài ra trong  đêm trình diễn tại rạp hát Olympia ở hà Nội ĐTP cũng đã hát bằng tất cả tâm hồn  để gửi riêng cho người yêu đang ngồi hàng đầu nghe mình hát.

Nhạc phẩm con thuyền không bến buồn ra riết nhớ người tình bao nhiêu thì ngược lại bài hát ‘Giọt mưa thu” lại bi ai thê lương bấy nhiêu. Bi ai  như cuộc đời của người nghệ sĩ nghe từng giọt mưa thu tí tách rơi trên mái mà tưởng như những giọt nước mắt khóc ai than hờ! Thê lương như tâm trạng tuyệt vọng của một người bệnh sợ bóng dáng tử thần vì trái tim trần thế của mình vẫn còn khao khát nhịp đập nhớ  thương người tình chung thủy. 

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi 
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi 
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu 
Ai khóc ai than hờ! 

Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành 
Như nhủ trời xanh 
Gió ngừng đi 
Mưa buồn chi 
Cho cõi lòng lâm ly 

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây 
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về 
Ai nức nở thương đời 
Chân buông mau 
Dương thế bao la sầu 

Sáng tác trong tâm trạng não nề buồn nhớ thương người tình da diết, nhạc sĩ ĐTP thoạt tiên đặt  đã tên cho bản nhạc này là “Vạn cổ sầu” để ghi lại khối sầu vạn cổ của đời mình. Những giọt mưa thu thánh thót rơi trên mái nào khác chi những hạt mưa ngâu khóc thương cuộc tình Ngưu Lang Chức Nữ Phong-Tuyết ngắn tựa tiếng khóc khi vào đời.

Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh 
Mây ngỏ trời xanh 
Chắc gì vui 
Mưa còn rơi 
Bao kiếp sầu ta nguôi 

Gió xa xôi vẫn về 
Mưa giăng mù lê thê 
Đến bao năm nữa trời 
Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu

Vào ngày cuối năm 1941, biết mình không thoát khỏi thần chết, nhạc sĩ ĐTP đã trở về Nam Định để được chết tại quê nhà. Người yêu của ông đã đến chăm sóc cho ĐTP cho đến khi nhắm mắt lià đời. Trên giường bệnh, trước phút lâm chung, người bạn Bùi Công Kỳ đã ôm đàn hát cho ông nghe một lần cuối nhạc phẩm Giọt mưa Thu. Nào ai ngờ được dòng nhạc do chính mình sáng tác lại chính là giai điệu buồn nhẹ nhàng dìu Đặng Thế Phong vào giấc ngủ ngàn thu. 

Vì sao bắc đẩu Đặng Thế Phong của làng âm nhạc Việt Nam sớm vụt tắt trên bầu trời nghệ thuật VN  vào lứa tuổi 24 để lại trong lòng người biết bao xúc động, vô vàn tiếc nuối nhớ thương. Đặng Thế Phong vĩnh viễn ra đi mang theo mình hình bóng chung thủy của người tình trong vành khăn tang trắng tiễn đưa người nhạc sĩ , người yêu và người chồng trong mộng chưa hề cưới về nơi an nghỉ cuối cùng.

Anh đi. Ở lại hồn tan nát
Màu áo khăn sô phủ kín đời

Những thu khúc Đặng Thế Phong như còn vang vọng  đâu đây dư âm cuộc  tình cao thượng thủy chung ngàn đời bất tử trong bầu trời âm nhạc Việt Nam.

ST
 
hoacucvang wrote on Oct 29, '09
Đặng Thế Phong sáng tác không nhiều, nhưng những bài hát của ông thì để lại dư âm mãi. Em thích bài Giọt mưa Thu, còn BB lại thích nghe Con thuyền không bến .
cuoidekhonggia wrote on Nov 3, '09
Em cung thich bai Giot mua thu, nhat la khu'c diep khu'c luye^'n la'y nghe rat hay va` la.

Thứ Tư, 28 tháng 10, 2009

Đốt lửa lên em.


Oct 28, '09 2:09 AM
for everyone
Mấy ngàn dặm hai khung trời cách biệt
em một phương
và ta ở một phương
trăng gió ở đây sao cũng dị thường
như khơi động nỗi niềm người viễn xứ
lỡ mai mốt em về qua xóm cũ
- ta lạc loài từ thuở dấy đao binh -
đường xưa em đi cô lẻ một mình
ôm khắc khoải thẩn thờ trong dư ảnh
Mưa bên ấy
chắc làm em thấm lạnh
gió Hạ buồn có làm tóc em bay
trời đất mang mang sông bể vơi đầy
ai đếm được con nước ròng, nước lớn
thôi nhé em -
góp chi từng sợi nắng
nuối tiếc gì bụi khói đã trôi xa
nhớ nhung nào năm tháng chẳng phôi pha
mà chợt khóc –
chợt cười trong ảo mộng
Đốt lửa lên em –
đốt lửa lên em, hâm thêm rượu nóng
để mình say quên bão táp vô tình
sao mắt em buồn như giọt sương đêm
tìm bàn tay –
tìm một bàn tay cũng chưa đủ ấm
biết về đâu ta nửa đời phiêu lãng
dấu u tình trong cổ mộ hoang sơ
có còn chăng
bèo bọt với mây mờ
và ủ ấp bóng người trong lặng lẽ
Sóng biển hỡi - 
xin vỗ về thật nhẹ 
cát vàng ơi – 
thôi xóa dấu hài hoa 
sỏi đá nào dòng nước đã trôi qua 
sao hiu hắt muộn phiền như rêu cỏ 
gác chuông Bắc ta treo hồn trên đó 
đợi em về hong tóc gọi đêm Thu 
cho mưa nguồn giăng lá thắm sa mù 
rồi em cất tiếng 
ru ta ngàn kiếp.

ST
cuoidekhonggia wrote on Oct 29, '09
Bài thơ này anh có rõ xuất xứ không anh? Em thấy có 1 số từ được viết hoa. Hữu ý hay vô tình?
quynhloan028 wrote on Oct 30, '09
Thắp nắng lên đi cho cả "anh" và "em" trong bài thơ ạ!

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009

NỤ CƯỜI.


Oct 26, '09 12:34 AM
for everyone
NỤ CƯỜI
Một nụ cười không làm mất mát gì cả, nhưng lại ban tặng rất nhiều.  Nó làm giàu có những ai đón nhận nó,mà không làm nghèo đi người sinh ra nó. Nụ cười chỉ nở trên môi trong khoảnh khắc phù du, nhưng ký ức về nó đôi khi tồn tại cả một đời. 
Người dù giàu sang đến đâu đi nữa cũng cần đến nụ cười, và người dù nghèo hèn cùng tột ,cũng sẽ được nụ cười làm cho trở nên giàu có. 
Nụ cười nuôi dưỡng hạnh phúc trong gia đình, gầy dựng thiện ý trong làm ăn, và làm lớn mạnh mối tương giao trong tình bạn,mang đến sự thư giãn những khi ta mỏi mệt, niềm hi vọng những khi tuyệt vọng, và ánh sáng những khi ta tăm tối trong muộn phiền. 
Nụ cười, cũng như tình yêu, là cái không thể mua bán vay mượn, hay thậm chí đánh cắp từ người khác.
Bởi vì, khi đó, nó chỉ là cái gì đó khiên cưỡng và vô nghĩa.
Có những người không bao giờ nở một nụ cười với bạn. 
Không hề gì,bạn cứ trải lòng mình ra ,và tặng họ nụ cười của bạn. Họ là những người không còn nụ cười để cho,  vì lẽ đó,họ chính là những người cần nụ cười của bạn hơn ai hết.
Hãy tươi cười với mọi người.Chúng ta chẳng những không mất gì cả, mà trái lại, sẽ nhận được rất nhiều.
ST
hoacucvang wrote on Oct 26, '09
ah ha, em cũng có lần viết về Smile rồi đấy... hôm nay thứ 2 em stress cực nhưng vẫn cứ " Cười lên nhé đời vui lên nhé, em ơi..." :D
linalol wrote on May 17
Hi hi..cười lên nào:)
cuoidekhonggia wrote on May 17
Hihihi
linalol wrote on May 20

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009

Màu tím hoa sim.


Oct 22, '09 9:11 PM
for everyone
Màu tím hoa sim
(Đây là một câu chuyện tình hay, lạ, cảm động về cuộc đời của nhà thơ mà tôi chỉ nghe qua một cách mơ hồ, chưa từng biết bao giờ nên muốn chia se cùng với các bạn. )
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Nhà thơ Hữu Loan (hình chụp năm 2004)

Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như yêu người em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê......
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phúp cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Lời tự thuật của HỮU LOAN
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...
Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt quá.”
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ, vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'.
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ...
...Tôi về không gặp nàng....
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng .
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi ' tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./
Hữu Loan.
hoacucvang wrote on Oct 23, '09
Bài thơ này Phạm Duy phổ nhạc , em và BB hay nghe ở phòng trà Ân Nam nè, hay lắm ý .
punkikite wrote on Oct 23, '09
hồi bé em cũng có nghe bài này rồi. Thương thật anh ạ.
cuoidekhonggia wrote on Oct 24, '09
Lúc nghe bài hát em thắc mắc nội dung thì buồn quá sao tiết tấu lại khá dồn dập. Bây giờ thì em hiểu rồi. Cám ơn anh.