Thứ Hai, 29 tháng 3, 2010

Hữu Loan và tôi.


Mar 29, '10 10:46 PM
for everyone
Hữu Loan và tôi ...
Tựa đề bài viết này khiến nguời đọc dễ lầm tưởng rằng, nhà thơ Hữu Loan và tôi là bạn đồng trang lứa, hoặc có mối giao tình với nhau, hay ít ra là có quen biết nhau,... Không, hoàn toàn không phải vậy. Nhà thơ Hữu Loan sinh trước tôi gần 3 phần tư thế kỷ lận... Thực ra, tôi biết đến tên nhà thơ lớn này vào lúc tôi khoảng 7, 8 tuổi qua bản nhạc được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc bài thơ nổi tiếng “Màu Tím Hoa Sim” của ông. Tóm lại, tôi biết về thơ được phổ nhạc của ông trước khi tôi biết về những dòng thơ hay về con người của ông.
Lần đầu tiên tôi được nghe thơ phổ nhạc của Hữu Loan là qua một dàn máy karaoke ở nhà người hàng xóm, trong xóm của tôi ở Sài Gòn. Nhà hàng xóm tôi, với một cái tivi cũ kỹ và một dàn máy karaoke lỗi thời, là nơi tụ tập thường xuyên của bà con trong xóm. Ngày nào cũng vậy, dù là đang ngủ trưa hay đang học bài, tôi cũng nghe văng vẳng những bài vẫn bị coi là nhạc “sến”, mà trong đó tôi thích nhất là bài “Màu tím hoa sim”. Nghe riết đến thành thuộc lòng, đi đâu tôi cũng ngân nga “những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt…”. Có lẽ trong một lúc cao hứng nào đó, khi nghe tôi hát, ba tôi lôi cuốn tập sưu tầm các bài thơ ông ưa thích ra, đọc cho tôi nghe vài bài. Với tâm hồn của tuổi thơ lúc ấy, tôi không cảm nhận được gì nhiều. Tuy nhiên, có lẽ vì ảnh hưởng qua bài nhạc phổ thơ nên tôi vẫn thích nhất bài “Màu tím hoa sim” của tác giả Hữu Loan. Vì yêu thích bài hát nên tôi đã học thuộc lòng luôn bài thơ. Nói thuộc vậy thôi chứ lúc đó tôi có hiểu gì đâu về câu chuyện và ý nghĩa sau lưng bài thơ tràn đầy tình cảm đó.
Sau này khi qua sống ở nước ngoài, tôi hầu như không còn nhớ gì về bài hát yêu thích của mình lúc nhỏ. Tình cờ một hôm, đang lướt web thì tôi đọc được một bài phỏng vấn chính nhà thơ Hữu Loan về bối cảnh ra đời của bài “Màu tím hoa sim”. Câu chuyện thật đau thương và cũng là một biến cố lớn của cuộc đời tác giả, đã làm tôi sụt sùi nước mắt. Nó cũng giải đáp cho tôi rất nhiều những câu hỏi ngây ngô mà hồi nhỏ tôi hay thắc mắc mỗi khi đọc thơ của ông, như là “tình yêu của ông dành cho vợ là tình yêu dành cho em gái, nhưng sao lại cưới cô ấy?”, “tại sao em nhỏ hậu phương lại bị chết?”. Từ đó tôi thấy bắt đầu yêu thích con người Hữu Loan, một con người sống đầy tình cảm... Cả bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” là những hình ảnh nhẹ nhàng diễm tuyệt, như “gió sớm thu về gờn gợn nước sông” hay “những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt”.., hình ảnh và ý thơ đều toát ra nỗi buồn man mác trong nỗi cô đơn của người lính xa nhà, của người em gái nhỏ đã mất, của bà mẹ già, của các em thơ. Với vốn liếng tiếng Việt không mấy dồi dào của mình, tôi không thể diễn tả được những điều muốn nói về sự yêu thích của tôi đối với bài thơ này. Tuy nhiên, nghe ba tôi nói, hồi thập niên 50, 60 của thế kỷ trước, sinh viên học sinh ở miền Nam gần như ai cũng biết và thích bài thơ này; và dường như ít có bài thơ nào lại được nhiều nhạc sĩ ở miền nam phổ nhạc đến thế. Cũng theo ba tôi thì tuy bài thơ của Hữu Loan rất thịnh hành ở miền Nam, nhưng lại bị chìm trong bóng tối ở miền bắc, dù rằng Hữu Loan ở lại miền Bắc. Sự khác biệt “nam – bắc” này đã thúc dục tôi tìm hiểu thêm về tác giả và bối cảnh làm nẩy sinh ra sự khác biệt đó.
Trước những ngày đất nước bị chia đôi, “Màu tím hoa sim” cũng là bài thơ được những người lính trẻ chép lại mang trong ba lô đi hành quân. Nhưng sau khi  cộng sản cai trị miền bắc, thì những thơ văn đầy tình người như bài “Màu Tím Hoa Sim” bị coi là “uỷ mị”, là sản phẩm của “giới tiểu tư sản”, nên phải bị cấm đoán. Đồng thời, những sự áp chế tư tưởng và thực trạng xã hội của miền bắc VN, đã làm bùng lên một phong trào văn nghệ sĩ đối kháng, với sự xuất hiện của Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) để đòi hỏi tự do sáng tác và chống lại chính sách độc tài của nhà nước. Đọc về NVGP và văn thơ trước đó hay cùng thời ở miền bắc, tôi biết thêm nhiều bài văn, bài thơ tuyệt vời khác cũng bị chìm trong bóng tối. Thật không gì sâu sắc hơn lối diễn tả của Quang Dũng với“Vách đá cheo leo súng ngửi trời”(Bài Thơ Tây Tiến); hay cay đắng, thảm sầu hơn ý thơ của Trần Dần: “Tôi bước ra không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”, (Nhất Định Thắng’). Với tâm hồn “rất người” của mình, nhà thơ Hữu Loan cũng tham gia vào phong trào NVGP và tiếp tục làm các bài thơ lên án những tiêu cực của cán bộ hay các văn nghệ sĩ thích nịnh hót Đảng. Những văn nghệ sĩ trong phong trào NVGP dĩ nhiên đều bị  trù dập bằng cách này hay cách khác. Trong hoàn cảnh đó, chính sự khẳng khái không luồn cúi của Hữu Loan đã làm tôi quý trọng con người của ông hơn là tài năng của ông. Vào thời bấy giờ, chỉ vì một chút lợi lộc, nhiều người đã bỏ rơi nhân cách của mình . Nhưng Hữu Loan thì cứ khăng khăng làm thơ đề cao tình yêu, tình người, tình yêu quê hương. Sau khi phong trào NVGP bi dập tắt, ông bị bắt đi tù “cải tạo” vài năm, rồi trở về quê lao động nặng nhọc, sống một cuộc đời khá vất vả. Cũng có một số người trong NVGP quay lại để qui phục Đảng vì miếng cơm manh áo, nhưng Hữu Loan thì nhất định không. Có lẽ ông là người có thái độ dứt khoát nhất, quyết không bao giờ chịu khuất phục. Tôi khâm phục thái độ dứt khoát này của ông. Cho đến ngày ông qua đời sự dứt khoát đó vẫn không hề thay đổi.
Từ bỏ tất cả để về quê sống một cuộc đời khổ cực, đi cày ruộng, thồ đá,... nhưng tôi tin chắc rằng ông sống rất vui vẻ trong tâm hồn, để rồi ra đi trong sự thanh thản. Tấm gương bất khuất của ông cũng sẽ luôn soi sáng cho những thế hệ sau ông . Cuộc đời và sự ra đi của ông đã nói cho cả thế giới biết rằng, một chế độ độc tài không bao giờ có thể làm con người ngưng đi quyền được suy nghĩ và bày tỏ nhũng suy nghĩ này, cho dù phải sống trong đày ải.
ST
— -

hoacucvang wrote on Apr 10, '10
Anh ơi! Bữa trước đêm nhạc tưởng nhớ nhà thơ Hữu Loan, cô Hồng Vân ngâm thơ này hay lắm. Còn ngoài NS Quốc Dũng phổ nhạc , Pham Duy phổ nhạc năm 1970 thành tựa Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà được nhiều ca sĩ hát, em cũng thích nữa .

Thứ Năm, 25 tháng 3, 2010

Chè Sài Gòn.


Mar 25, '10 5:07 AM
for everyone
Chè Sài Gòn

Chè đây là chè để... ăn, không phải trà mạn, trà ướp hương hay trà tươi để uống như cách gọi của miền Bắc.
Chè có chè khô như chè nếp cẩm, bí đỏ,... chè loãng như chè hạt sen, đậu xanh phổ tai... múc ra chén ăn hoặc cho vào ly đập đá tùy ý.
Miền Bắc thời tiết thay đổi rõ rệt nên chia ra mùa lạnh ăn chè nóng có nhiều gừng: bánh trôi Tàu, chè bà cốt,... mùa nóng thịnh chè đậu đen, đậu xanh,... cho “mát”. Miền  Nam  có lúc mát mẻ nhưng không bao giờ rét nên chè đá hầu như ăn quanh năm.
Chè là món thông dụng sáng trưa chiều tối đều ăn được nhưng không giống như xôi, bún hay bánh mì có thể no bụng, chè là thức tráng miệng sau món mặn, như bữa lỡ, như món ăn chơi đứng một mình...
Nhiều quán chè được biết đến rộng rãi ở thành phố. Cách đây nhiều năm là quán chè Huế nằm trên đường Trần Bình Trọng, khách ngồi đầy trên vỉa hè - nay chủ đã xuất cảnh. Cũng giống như hàng chè ngoài chợ thường kèm xôi, chè Bùi Thị Xuân bán xôi gà quay; chè Mỹ nằm gần trường học có gỏi đu đủ và cá viên chiên, mới đầu nhiều người tưởng nhập cảng từ Hoa Kỳ, hào hứng tấp vào ăn thử thì té cũng bấy nhiêu thứ chè thông thường, Mỹ chỉ là tên chủ nhà thôi; đồng nghĩa chè Cung Ðình xuất hiện nhiều nơi vẫn đậu xanh, đậu đen... quen thuộc, riêng chè bắp được quảng cáo nấu bằng bắp chuyên chở từ Cồn Hến ngoài Huế vào, không biết Cồn Hến trồng được bao nhiêu bắp cung cấp cho nhiều quán chè Cung Ðình nhưng khi ăn hoàn toàn không khác gì chè bắp ngoài chợ; gánh chè nằm trên lề đường Trần Quý Cáp, sạp chè vỉa hè Cao Bá Nhạ kèm xôi vò, Nguyễn Cư Trinh kèm xôi hoa cau, dưới ánh đèn đường vàng vọt khách vẫn lui tới nườm nượp, người ăn tại chỗ, người xếp hàng xách mang về. Chiều tối không còn chợ búa nữa, hàng chè lan ra lề đường. Bấy nhiêu thứ chè mà khách ăn hoài không chán.
Chè Tàu thường được bán ở xe, một xe chè Tàu khá ngon ở đường Trần Quý Cáp nhưng nổi tiếng nhất là hai quán chè nằm trên đường Châu Văn Liêm và Trần Hưng Ðạo B đối diện cư xá Ðại Quang Minh, nhiều món chè thoang thoảng vị thuốc Bắc như chè đậu đỏ nấu với vỏ quýt chẳng hạn, người Việt không quen khẩu vị không thích lắm. Theo quan niệm Ðông y, đậu xanh mát ăn vào mùa Hè thì tốt, đậu đỏ và đậu đen ấm thích hợp cho người già. Tuy nhiên nếu đang uống thuốc bắc mà ăn chè đậu xanh thì sẽ bị “rã” thuốc ngay.
Nguyễn Tri Phương có mấy hàng chè Thái còn to hơn cả nhà hàng vì chiếm diện tích hai gian nhà liền nhau, bày chiếc thùng tô nô đựng chè đóng bịch sẵn nằm hoành tráng ngoài lề đường để tiện bán cho người ghé mua. Chè Thái có vẻ “mốt” nhưng người lớn tuổi không thích lắm vì quá béo, quá nhiều nước dừa, sầu riêng pha trong đó. Có vẻ chè Thái thịnh phía Chợ Lớn nhiều hơn ngoài Sài Gòn vì đi sâu vào Hải Thượng Lãn Ông, lại một hàng chè Thái tuy bình dân nằm trên vỉa hè ngoài cổng một ngôi trường nhưng buổi tối đông nghẹt, xe đậu ken chật, người ngồi chen chúc sát nhau.
Những hàng chè ngon nhiều người biết đến ăn đông đúc do chè nào có mùi đặc trưng của nguyên liệu ấy, vị béo ngọt và thơm của nước đường và nước cốt dừa thực sự chứ không phải ngọt đường hóa học, vị béo hóa học hay hương liệu hóa học nốt.
Nổi tiếng từ lâu là chè Hiển Khánh nằm trên đường Nguyễn Ðình Chiểu chỉ bán thạch và chè đậu xanh đánh có thêm vài loại bánh cổ truyền như su sê, bánh gai, bánh khảo... Sau này cũng có một vài quán tương tự như quán thạch chè trên đường Nguyễn Trãi bán thêm thạch dừa. Gánh rong sương sa, sương sâm, sương sáo, mủ trôm, mủ gòn... thường bán thêm chè đậu xanh đánh. Ly đậu xanh tán nhiễn đặc quánh nằm ngay ngắn thành dãy trong chiếc tủ kính nhỏ, rất hay là úp ngược mà đậu không hề bị chảy xuống. Gánh tàu hũ có một âu bột lọc con tằm màu trắng và xanh lá dứa ăn riêng hay sớt chung vào tàu hũ đều ngon cả.
Trước kia buổi tối hay có những gánh chè đậu đen bán rao khắp xóm. Bây giờ tối đến nhà nào nhà nấy đóng kín cửa xem TV, xem phim video, không ai mở cửa ngồi trước nhà hóng mát, trò chuyện với hàng xóm ngóng hàng chè đi qua để trời mát ăn một chén chè nóng, trời nóng ăn ly chè lạnh. Hàng bánh mì, cà rem... bán rong đều phải rao hàng qua băng cát sét để tiếng rao xuyên qua lớp cửa đóng lọt vào nhà người ta. Chưa đuổi kịp đến việc rao hàng qua máy thì gánh chè kẽo kẹt đã mất dấu, trong nhà sẵn các món ăn thức uống đóng hộp, đóng chai mới mẻ, chẳng còn ai muốn ăn món chè xem chừng quá cũ kỹ, đơn điệu đó nữa.
Vả gánh chè không còn giữ địa vị độc tôn vì siêu thị bán thạch dừa, bột thạch và mè đen khô chế nước sôi thành chè ăn ngay, sương sa hột lựu đóng bịch, chè khoai tím, đậu xanh, táo xọn... bán ly mua về chất đầy trong tủ lạnh muốn ăn lúc nào cũng có sẵn. Tuy không ngon bằng chè mới nấu nhưng tiện lợi, hỏi sao bà gánh chè không buồn đời bỏ đi đâu mất, chỉ khiến những người hoài cổ đôi khi thấy nhớ vắng...
Từ xưa đến giờ, trước cổng trường học bao giờ cũng đậu xe chè với món chè nghìn năm không thay đổi là đậu xanh, đậu đỏ. Sau này thêm cocktail toàn trái cây vẫn được ghép chữ “chè” đằng trước thành chè cocktail gồm dứa và mít xé sợi, chuối khô xắt hạt lựu, mứt đu đủ sợi dài nhuộm xanh đỏ, thêm xi rô và đá bào thành một thứ chè vừa ăn, vừa uống, nhìn đẹp mắt và ăn ngon miệng. Ai trong đời làm học trò không từng nhiều lần đứng ăn ly chè quen thuộc ở những xe chè quen thuộc này.
Hàng nước trang trí lịch sự nhưng hàng chè thì không. Các quán chè thường nằm gần trường trung học vì học sinh tiểu học không đủ tiền vào đó, sinh viên đại học ngồi quán uống nước chứ không ăn chè nữa. Vì thế nếu không là quán cạnh trường thì chè đều đổ bộ ra ngoài vỉa hè.
Bây giờ phong trào ăn kiêng lên cao nên nhiều hàng chè cho đường vừa phải chứ không ngọt lắm. Dù sao bản chất của chè là rất ngọt, mau ngán nên ăn hương ăn hoa, chẳng ai làm cả tô bao giờ. Chè luôn luôn được múc vào những chiếc chén be bé xinh xinh ba hay bốn ngàn đồng. Giá thấp như vậy nên khó ai đầu tư những tiệm chè đẹp mắt trong khi quán trà sữa trân châu, quán donut với lối trang trí sặc sỡ Tây phương, mọc ra nhan nhản khắp nơi thu hút đông đảo giới học sinh, sinh viên. Ðám teen mặc quần áo kiểu Hàn Quốc, phong thái thời trang vào những quán đó có vẻ... sành điệu hơn, thích hợp hơn quán chè cũ rích, muôn đời không thay đổi.
Ngoài những món chè lưu truyền từ xưa, chè cũng được thay đổi, chế biến mới lạ như chè nha đam, chè sakê, kiwi... Nếu không phải giỗ chạp tết nhất thì người ta thường ăn chè ngoài đường hơn mất công nấu nướng ở nhà.
Một bà cụ theo đúng nếp xưa, cứ mồng một và rằm mua nải chuối để lên bàn thờ cúng. Nải chuối hơn mười quả ăn đâu có hết, bỏ thì phí nên cúng xong, bà lụi cụi nấu chè chuối. Cả một nồi chè to thơm ngon nhưng do nước dừa không để lâu được, bà lại tìm người mang biếu. Thành thử đều đặn mỗi tháng hàng xóm được ăn chè chuối miễn phí hai lần. Sắp đến ngày thi cử, các hàng chè rất đông khách vì lũ sĩ tử đua nhau ăn chè đậu. Ðậu gì cũng được: đậu xanh, đậu trắng, đậu ván... Nhờ chén chè nhỏ bé chứa những hạt đậu tầm thường đó mà niềm tin được đẩy lên cao không tưởng tượng nổi. Lại có năm thiên hạ truyền tai nhau bài sấm nếu ăn món chè nấu bằng năm loại đậu thì sẽ tránh được ngày tận thế. Thế là thiên hạ ào ào mua đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ, đậu trắng, đậu phọng... nấu nồi chè ngũ vị. Ăn một chén chè lủng củng hạt nhừ, hạt sượng, hạt bở, hạt trai... mà giữ được mạng sống trên cõi đời này thì cũng đáng!
Thế mới biết chè xem ra cũng... nhiều chuyện!
ST


hoacucvang wrote on Mar 25, '10
Ah ha, chè - chè là món BB thích lắm nè !

kgiaoru wrote on Mar 29, '10
đọc bài này xong lại muốn vút về Hn ăn các loại chè quá :) à có chạy về ăn chè xong thì tạt sang hiệu thuốc đẻ mua lọ nhỏ mắt Ronto vì cái màu đỏ chóe lọe font chữ ở entry này :)) nhức hết cả mắt :D

cuoidekhonggia wrote on Mar 29, '10
Em se đến từng quán chè trong entry này để 'tính sổ' hi hi.
Anh ơi sao không quảng cáo cho 1 loại chè có tên là 'chế ma phổ' - chè mè đen

hoangvankhanh wrote on Mar 29, '10
Trời ơi, 1 bài về chè dài ơi là dài.

che SG 1

Minh họa liền :D

che

Anh viết về chè dài thế, vậy em đố anh đây là chè gì? ;))

cuoidekhonggia wrote on Mar 29, '10
The ai doan trung co thuong kg, hoangvankhanh? :)

sydney2000 wrote on Mar 29, '10
Chac la che Bap...? Dung khong? So yummy. Thèm qua. Hehehe

hoangvankhanh wrote on Mar 30, '10
The ai doan trung co thuong kg, hoangvankhanh? :) 
hhiihih... phần thưởng là chờ anh S về dẫn tụi mình đi ăn chè. kkeekeke ;))

hoangvankhanh wrote on Mar 30, '10
sydney2000 said
Chac la che Bap...? Dung khong? So yummy. Thèm qua. Hehehe 
hiihihi... Anh trai giỏi quá. Chè bắp nước dừa đó. Ngon tuyệt cú mèo luôn nha ;))

cuoidekhonggia wrote on Mar 30, '10
Hehe vay de em suu tam thiet nhieu dia chi cho anh S ve hen hehehe

hoangvankhanh wrote on Mar 30, '10
Hehe vay de em suu tam thiet nhieu dia chi cho anh S ve hen hehehe 
trời ơi, fải sưu tầm địa chỉ mấy món mặn nữa nha. Ăn ngọt ngán lắm ;))

snowsmiles wrote on Apr 4, '10
Anh ơi, chữ hơi nhỏ, hơi khó đọc.

snowsmiles wrote on Apr 4, '10
Anh bên này mà sưu tập ở đâu ra một loại địa chỉ các loại quán cũng như tên chè. Bái phục, bái phục.

Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010

Màu tím hoa sim.


Mar 23, '10 5:06 AM
for everyone
Màu tím hoa sim
(Đây là một câu chuyện tình hay, lạ, cảm động về cuộc đời của nhà thơ mà tôi chỉ nghe qua một cách mơ hồ, chưa từng biết bao giờ nên muốn chia se cùng với các bạn. )
Nàng có ba người anh đi bộ đội



Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như yêu người em gái.
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh bết bùn
Đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê......
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phúp cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Lời tự thuật của HỮU LOAN
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...
Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt quá.”
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ, vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'.
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ...
...Tôi về không gặp nàng....
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng .
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi ' tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./
Hữu Loan.
cuoidekhonggia wrote on Mar 23, '10
Doc ma ngam ngui wa anh nhi.
cuoidekhonggia wrote on Mar 23, '10
Hoa sim de thuong wa, nhat la cai mau tim cua hoa, kg đâ.m khong nha.t

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010

Đàn bà second-hand.


Mar 20, '11 11:05 PM
for everyone
Đàn bà second-hand


Vào khoảnh khắc chạy xe dọc bờ biển, tới mỏm Đông Bắc của hòn đảo ấy, radio trên xe ngẫu nhiên chuyển từ mục Tin show-biz sang âm nhạc chiều chủ nhật, bằng bài hát “Yêu đơn phương” của Đào Triết.
Tôi chỉ nhớ ca sĩ này từng tặng mối tình trước một bài tình ca tuyệt vọng vào ngày nàng đi lấy chồng, lấy một đại gia Singapore già hơn nàng vài thập kỷ và giàu hơn chàng gấp triệu lần. Bởi vì bài tình ca ấy tuyệt vọng quá, người nào còn nặng lòng vì tình yêu đều sẽ vừa nghe vừa chảy nước mắt, cho nên giờ đây, khi nghe “Yêu đơn phương”, tôi mừng cho người đàn ông này đã quay trở lại với tình yêu. Cho dù trong tình yêu này, có lẽ anh ta vẫn một mình.
Tình yêu được mang tặng vô điều kiện, như một món quà quý giá nhất của đời người, đó mới là tình yêu đẹp đẽ nhất. Còn yêu mà cân nhắc xem liệu có được đáp lại tương xứng, là đổi chác, chứ nào phải là yêu.
Tôi đã thành đàn bà second-hand trong một cuộc hôn nhân như thế, chúng tôi đổi chác tình yêu cho nhau và nghĩ rằng, hôn nhân chỉ cần sự tương xứng của Cho và Nhận là đủ. Để giờ đây, người lái xe đưa tôi ra biển trong một chiều chủ nhật cần khuây khỏa nói rằng, đàn bà yêu lại lần nữa khó làm sao, nhìn em thì biết!
Trong gương chiếu hậu, gương mặt tôi trắng bệch, dù trời không rét, dù không gió và xe chạy rất êm.
Người bạn tôi nói, có hai liều thuốc chữa lành cơn bệnh thất tình. Một là những bài tình ca của Lương Tịnh Như – một ca sĩ Malaysia hát bằng tiếng Hoa phổ thông. Hai là những cuốn sách của nhà văn Lưu Dung người Đài Loan. Nhưng một con bệnh nặng như em, nên dùng cả hai.
Lương Tịnh Như hát rằng, thật tiếc anh sẽ không đi cùng em tới giây phút cuối cùng của cuộc đời này, nhưng dù sao em vẫn cảm ơn những gì ta từng có.
Còn Lưu Dung viết về một cuộc hôn nhân rổ rá cạp lại giữa một ngôi sao ca nhạc đã hết thời, về già hết cả nhan sắc lẫn tài hoa, với một ông giám đốc chật vật mưu sinh, mãi không vươn lên được hàng đại gia.
Thế nhưng ông chồng ấy rất mãn nguyện và hạnh phúc. Ông ấy nói như thế này về hạnh phúc:
“Vợ tôi khi còn là ca sĩ nổi tiếng, đã lấy hai đời chồng đại gia, li hôn hai lần. Một đại gia người Thượng Hải và một đại gia người Tứ Xuyên. Nhờ thế, giờ đây cô ấy vừa biết nấu các món ăn Thượng Hải lẫn Tứ Xuyên, vừa biết thu xếp gia đình sang trọng ấm cúng. Và bỗng dưng, đâu phải hai ông chồng kia, mà là chính tôi đã được nhận tất cả những gì tốt đẹp nhất của cô ấy trong vai trò người vợ. Đó là cái đẹp hoàn hảo của một mảnh vỡ không hoàn hảo!
Xe đã tới mỏm Đông Bắc, chúng tôi cùng im lặng ngồi nhìn ra biển xa, âm nhạc nối tiếp trên radio như vọng về từ một thế giới xa tít ở ngoài kia, gọi chúng tôi, nối chúng tôi, nhắc thời gian bằng những bản tin ngắn chen giữa những tình khúc.
Chúng ta đều là những người đã từng trải, đã mất mát, đã trở thành một thứ đồ second-hand trong đời sống, bởi thế chúng ta mới học được chữ nhẫn nhịn, chấp nhận những gì khiếm khuyết của nhau.
Khi còn trẻ, ai cũng mong ước tình yêu hoàn hảo, một hạnh phúc trọn vẹn không bị chia sẻ, một tương lai được yêu thương. Bởi thế, khi bước vào tình yêu, ta luôn tìm kiếm một người ta thấy hoàn hảo nhất, phù hợp tuổi tác, tương đồng về suy nghĩ, thậm chí, còn phải phù hợp về chiều cao, có xuất thân hoặc giọng nói không đến mức làm ta phản cảm.
Nhưng bước qua ngưỡng cửa ba mươi, nhất là khi người con gái trở thành người phụ nữ điềm đạm, thậm chí thành người đàn bà second-hand bị thừa ra từ cuộc đời người đàn ông khác, ta mới hiểu, những tiêu chuẩn ấy chẳng còn quan trọng nữa. Cái ta cần không phải là một người đàn ông hoàn hảo, mà là tìm ra sự hoàn hảo của một người đàn ông, một con người, một mối quan hệ.
Chấp nhận được sự không hoàn hảo của một người đàn ông, ta mới có thể tin được rằng sẽ có người yêu sự không hoàn hảo của người đàn bà ba mươi.
Sẽ có người yêu một người đàn bà mỏi mệt và hoài nghi.
Và nói với nàng rằng, sự không hoàn hảo cũng làm cho người đàn bà hạnh phúc. 
(TRANG HA )
funnysunday wrote on Mar 20, '11
Hay va sau sac cho du em chua thuc su trai qua de "ngam".
nganhoney2003 wrote on Mar 21, '11
hay, sâu sắc lắm ...
kangaroo69 wrote on Mar 21, '11
Cái ta cần không phải là một người hoàn hảo, mà là tìm ra sự hoàn hảo của một con người, một mối quan hệ...
huynhkimdieu wrote on Mar 21, '11
Càng đọc càng thấy thắm thía nhiều, những mãnh vỡ được ghép lại sẽ ko còn là mãnh vỡ nữa :)
sydney2000 wrote on Mar 21, '11
Càng đọc càng thấy thắm thía nhiều, những mãnh vỡ được ghép lại sẽ ko còn là mãnh vỡ nữa :) 
Dung nhu the em a !
sydney2000 wrote on Mar 21, '11
kangaroo69 said
Cái ta cần không phải là một người hoàn hảo, mà là tìm ra sự hoàn hảo của một con người, một mối quan hệ... 
Lam gi co 1 nguoi hoan hao
sydney2000 wrote on Mar 21, '11
hay, sâu sắc lắm ... 
:)))))))))))))))))
sydney2000 wrote on Mar 21, '11
Hay va sau sac cho du em chua thuc su trai qua de "ngam". 
Chua trai qua nhung cam nhan duoc thi hay hon em a.
nslekim wrote on Mar 22, '11
Bài vuết hay và sâu sắc quá anh Kev ơi! Cám ơn anh nhé!
sydney2000 wrote on Mar 22, '11
nslekim said
Bài vuết hay và sâu sắc quá anh Kev ơi! Cám ơn anh nhé! 
Hy vong chi cam nhan duoc nhung dieu thu vi trong bai viet nay
linalol wrote on Mar 23, '11
Bài viết thật thú vị. Chúc Kev hạnh phúc với sự hoàn hảo của người đã chọn.
sydney2000 wrote on Mar 23, '11
linalol said
Bài viết thật thú vị. Chúc Kev hạnh phúc với sự hoàn hảo của người đã chọn. 
:))))
funnysunday wrote on Mar 24, '11
sydney2000 said
:)))) 
Dieu cuoi gi vay anh?
thuoaymuahong wrote on Mar 25, '11
Trang Hạ viết về mảng hôn nhân cũng thật là hay! Thank anh đã post và chia sẻ!
nslekim wrote on Mar 25, '11
Cho KL mang về nhà nhé! Thanks anh Kev
hoasen88 wrote on Mar 29, '11
Bài viết thật hay.
cuoidekhonggia wrote on Mar 29, '11
:)